Sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trong nền kinh tế tuần hoàn
Trong những thập kỷ qua, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dệt may trên toàn thế giới tăng rất nhanh, chúng ta đang phải đối mặt với một núi rác thải dệt may khổng lồ. Đã đến lúc phải thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng để bền vững hơn nếu không chúng ta sẽ phải đối mặt với các vấn đề môi trường như mất đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu. Một trong những cách để chống lại các núi rác thải dệt may ngày càng lớn là triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn.
Một nền kinh tế dệt may mới sẽ dựa trên một số nguyên tắc như: 1) thiết kế phù hợp, 2) sử dụng lại quần áo và sửa chữa chúng để dùng vào những mục đích khác, 3) thu gom và tái chế. Tuy nhiên, thực hiện các giải pháp kinh tế tuần hoàn là một nhiệm vụ đầy thách thức, nó đòi hỏi sự tham gia chung của ngành dệt may toàn cầu và người tiêu dùng trên toàn thế giới, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn cũng đòi hỏi những thay đổi ở cấp độ kinh tế, xã hội, môi trường và luật pháp.
Gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, tiết kiệm cho người tiêu dùng
Kinh tế tuần hoàn là khái niệm dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống với nguyên lý “khai thác, sản xuất và thải bỏ sau tiêu thụ”, đang làm cạn kiệt tài nguyên và tạo ra một lượng lớn chất thải.
Nhìn chung, nền kinh tế tuần hoàn thúc đẩy sử dụng hiệu quả tài nguyên, tái sử dụng và khép kín chu trình sản xuất nhằm mục đích giảm nguyên liệu và năng lượng đầu vào, kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm thiểu phát sinh chất thải và giảm tác động xấu đến môi trường (Hình1)
Hình1 – Nền kinh tế tuần hoàn và kinh tế tuyến tính
Khái niệm kinh tế tuần hoàn nhất quán với các nguyên tắc 3R: Giảm thiểu, Tái sử dụng và Tái chế.
Một nền kinh tế tuần hoàn sẽ có nhiều lợi ích và cơ hội, đó là:
- Giảm thiểu việc sử dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo như nước, năng lượng, nhiên liệu hóa thạch và nguyên liệu thô.
- Giảm sự phụ thuộc vào các nước khác đặc biệt là các quốc gia bị phụ thuộc về nguyên liệu thô, sự phụ thuộc này có thể dẫn tới những căng thẳng về chính trị toàn cầu.
- Giảm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính, giảm thiểu những tác động của biến đổi khí hậu.
- Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và mô hình.
- Gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, tiết kiệm cho người tiêu dùng.
- Tạo ra các cơ hội kinh tế, Tạo việc làm mới (trong lĩnh vực đổi mới, thiết kế, tái chế và sáng tạo)
Mặc dù có nhiều lợi ích và tiềm năng như vậy nhưng việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn không phải là quá trình đơn giản, đặc biệt đối với một ngành có chuỗi cung ứng phức tạp và rộng khắp trên thế giới như ngành dệt may.
Trách nhiệm với môi trường toàn cầu từ dệt may tuần hoàn
Như chúng ta đã biết, chuỗi cung ứng của ngành dệt may và thời trang thế giới bao gồm hàng triệu nhà sản xuất, hàng tỷ người tiêu dùng, chuỗi có tính toàn cầu hóa rất cao, cung cấp việc làm cho hơn 300 triệu lao động, có tác động to lớn đối với kinh tế xã hội toàn cầu. Do đó mỗi hành động tích cực của những thành viên trong chuỗi sẽ góp phần trong việc đưa ngành dệt may và thời trang thế giới chuyển đổi theo hướng bền vững hơn, từng bước hướng tới một nền công nghiệp dệt may và thời trang tuần hoàn với các mục tiêu như sau:
- Sử dụng các nguyên vật liệu tự nhiên, năng lượng và nguồn tài nguyên tái tạo hiệu quả hơn.
- Loại bỏ các chất gây nguy hại cho con người và môi trường, minh bạch các thông tin đó trong chuỗi.
- Giảm phát thải các hạt nhựa siêu nhỏ trong quá trình sử dụng hàng dệt may từ xơ sợi tổng hợp.
- Kéo dài vòng đời của sản phẩm dệt may nhờ vào: thay đổi thiết kế, sử dụng sản phẩm, chính sách bán hàng, loại bỏ dần thời trang nhanh
- Tái chế. Việc tái chế có thể đạt được kết quả khả quan khi ngay từ đầu sản phẩm dệt may đã được thiết kế thuận lợi cho tái chế, ví dụ như giảm việc sử dụng nguyên liệu pha hoặc hàng dệt may chất lượng thấp.
Tuy nhiên, để hướng tới bền vững và tuần hoàn, ngành dệt may còn gặp nhiều rào cản, đó là:
Dệt may bền vững từ nguyên liệu tự nhiên, hữu cơ và tái chế…
Nguyên liệu ban đầu của ngành dệt may là các loại xơ dệt, ngành dệt may phát triển đồng nghĩa với việc tiêu thụ xơ dệt ngày càng tăng lên. Nhu cầu về xơ dệt hàng năm dự kiến sẽ tăng đều từ 3-4% do dân số tăng và sức mua tại các thị trường cũng tăng lên. Xơ dệt có nguồn gốc từ tự nhiên, chủ yếu là xơ bông chiếm từ 24-26%, xơ dệt tổng hợp (chủ yếu là polyester) chiếm khoảng 62-65%, còn lại là các xơ khác. Tới năm 2030 ước tính, lượng xơ tiêu thụ trên toàn cầu đạt 140 triệu tấn.
Từ khía cạnh môi trường, sự tăng trưởng này sẽ mang lại tác động tiêu cực do cạn kiệt các nguồn tài nguyên và gia tăng rác thải. Làm sao vừa đáp ứng nhu cầu của con người vừa giảm tác động đến môi trường, câu trả lời đó là ngành dệt may phải phát triển bền vững. Tính bền vững ấy dựa trên việc sử dụng hiệu quả tài nguyên, tìm kiếm vật liệu thay thế, tái sử dụng hoặc tái chế hiệu quả hơn, áp dụng công nghệ sạch, cung cấp thông tin minh bạch về sản phẩm cho người tiêu dùng để mua hàng có trách nhiệm, theo vòng khép kín của mô hình kinh tế tuần hoàn.
Các giải pháp bền vững liên quan đến xơ dệt hiện nay đang được phát triển tập trung vào xơ dệt ưu tiên. Thuật ngữ ưu tiên (preferred) dùng để chỉ các loại xơ và vật liệu dệt đã được cải tiến có tác động đến môi trường và xã hội nhưng ít hơn xơ dệt thông thường.
Đối với nguyên liệu bông, chúng ta đang có bông ưu tiên, bông hữu cơ và bông tái thế. Khác với bông thông thường bông ưu tiên là loại nguyên liệu bền vững, tuân thủ các tiêu chuẩn về sinh thái và xã hội. Bông ưu tiên ngày càng được các nhà sản xuất dệt may sử dụng nhiều hơn, từ 9% năm 2013 lên 22% năm 2018 trong tổng sản lượng bông và đã được trồng ở 30 quốc gia tập trung nhiều ở Braxin, Trung Quốc, Pakistan,… Bông hữu cơ được sản xuất và chứng nhận theo tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ, quy trình sản xuất này duy trì được sức khỏe của đất, hệ sinh thái và con người bằng cách tận dụng các quy trình tự nhiên thích ứng với điều kiện tự nhiên của từng vùng trồng, không sử dụng hóa chất độc hại hoặc thuốc trừ sâu, không sử dụng hạt giống biến đổi gen. Tái chế bông là một cách tiếp cận khác hướng tới một ngành dệt may tuần hoàn nhờ vào tiềm năng giảm tiêu thụ nước, năng lượng và chất thải. Đây là quá trình biến quần, áo, vải, sợi bông đã qua sử dụng hoặc không còn giá trị sử dụng (hàng tồn kho) thành xơ bông tái chế để tiếp tục được sử dụng trong quá trình sản xuất hàng dệt tạo ra những sản phẩm dệt may mới. Bông tái chế còn được gọi là bông tái sinh.
Đối với nguyên liệu xơ dệt có nguồn gốc từ xenlulo nhân tạo, hiện các nhà sản xuất xơ cũng cho ra dòng sản phẩm xơ ưu tiên và tái chế. Xơ dệt có nguồn gốc từ xenlulo nhân tạo (MMCF) bao gồm các loại: viscose, acetate, lyocell, modal và cupro. Các xơ này được sản xuất chủ yếu từ gỗ nhưng diện tích rừng toàn cầu đang bị suy giảm nhanh chóng vì thế đây cũng là lý do mà các loại xơ dệt MMCF ưu tiên và tái chế được quan tâm sản xuất. MMCF tái chế được làm từ các loại vật liệu dệt hoặc không phải vật liệu dệt có nguồn gốc từ xenlulo, đa phần được các nhà sản xuất xơ dệt nhân tạo lớn trên thế giới như Lenzing, Asahi Kasei,… phát triển trong vòng trên dưới 10 năm trở lại đây.
Đối với nguyên liệu xơ dệt có nguồn gốc từ động vật, chủ yếu là len, do nguồn cung không tăng lại cũng vướng phải những tác động đến môi trường như chất thải, thuốc thú y và các vấn đề liên quan đến động vật… nên các nhà sản xuất xơ dệt cũng phát triển len ưu tiên (len hữu cơ) và len tái chế. Len ưu tiên là nguyên liệu được lấy từ những con cừu được đối xử có trách nhiệm và tuân thủ phương pháp quản lý đất tiên tiến, đáp ứng được một trong những tiêu chuẩn RWS, ZQ và len hữu cơ.
Đối với nguyên liệu xơ dệt có nguồn gốc tổng hợp – loại nguyên liệu phổ biến nhất là polyester. Polyester tái chế (rPET) được làm từ chất thải nhựa đã qua sử dụng như chai nhựa polyethylene terephthalate (PET), hàng dệt may polyester tồn kho hoặc từ các chất thải của ngành may (rẻo vải). Thị phần rPET ngày càng tăng đạt 13% tổng sản lượng sợi PET toàn cầu và khoảng 29% tổng sản lượng của xơ polyester cắt ngắn, trên thị trường có nhiều hãng sản xuất xơ rPET, có thể kể đến BIONIC, Teijing, Invista,…
Ngoài việc tái chế PET, thị trường còn có các nhóm polyester gốc sinh học tuy nhiên những xơ này không phải là loại bền vững hay ưu tiên nên việc sản xuất chúng vẫn phải tuân thủ các quy định liên quan đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Một số loại xơ dệt PET sinh học trên thị trường là: TopGreen Bio PET Filament (Far Eastern) có 30% nguyên liệu sinh học từ mía; ECO CIRCLE Plantfiber (Teijing), có 30% sinh học từ mía; LYCRA T400, Ingeo poly (Natureworks) có nguồn gốc từ ngô, sắn, mía hoặc củ cải đường.
Sản phẩm dệt may hiện nay không chỉ được làm từ 1 loại xơ dệt mà đa số chúng là những sản phẩm có từ 2 thành phần nguyên liệu trở lên, vì thế việc tái chế những sản phẩm này là một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn. Muốn tái chế những sản phẩm dệt may có nhiều thành phần việc thì việc làm đầu tiên là phải tách chúng ra vì mỗi loại xơ dệt lại có những đặc tính khác nhau. Kỹ thuật tái chế các vật liệu hỗn hợp cũng đang được nghiên cứu nhưng chưa mang lại hiệu quả.
Đến hoạt động tái chế và tái sử dụng quần áo
Việc kéo dài vòng đời sản phẩm dệt may bằng cách tái sử dụng và tái chế là giải pháp quan trọng trong nền kinh tế dệt may tuần hoàn.
Tái sử dụng sản phẩm dệt may là cách chuyển chúng cho chủ mới, thông qua việc thuê, buôn bán, mượn và cho tặng ở các cửa hàng đồ cũ, chợ trời, chợ trực tuyến hoặc tổ chức từ thiện,…
Người ta ước tính rằng, chỉ khoảng 1% tổng lượng nguyên liệu sản xuất ra quần áo được tái chế, tương ứng với khoản chi phí 100 tỷ USD bị mất đi. Để tái chế hàng dệt may người ta sử dụng ba công nghệ: cơ học, hóa học và nhiệt. Các công nghệ này bổ sung cho nhau và thường được áp dụng phối hợp như phân loại, cắt, xé,… (cơ học), làm nóng chảy (nhiệt) và khử, phân hủy (hóa học).
Ngoài ra, người ta cũng phân loại hoạt động tái chế theo các khái niệm downcycling, upcycling và closed-and open-loop recycling. Thuật ngữ downcycling đề cập đến kỹ thuật xử lý lại để tạo ra vật liệu tái chế có giá trị hoặc chất lượng thấp hơn sản phẩm ban đầu. Trong tái chế hàng dệt may, đây là phương pháp phổ biến nhất, quần áo và hàng dệt may được chuyển hóa thành các xơ ngắn, các xơ này có chất lượng giảm so với xơ nguyên bản ban đầu và chúng được sản xuất thành các sản phẩm có chất lượng thấp hơn. Ngược lại, upcycling mặc dù cũng là kỹ thuật tái chế nhưng lại tạo ra các sản phẩm có giá trị và chất lượng tương đương hoặc cao hơn so với vật liệu cần tái chế ban đầu. Tái chế vòng khép kín (close-loop recycling) đề cập đến việc chuyển đổi các vật liệu phế thải trong cùng một chuỗi giá trị sản phẩm (ví dụ: từ chai sang chai, xơ thành xơ). Đối với vật liệu tái chế vòng hở (open-loop recycling) vật liệu tái chế tạo ra có giá trị sử dụng thấp hơn do chất lượng giảm, ví dụ, chai PET đựng đồ uống được tái chế thành xơ (Hình 2)
Hình 2 Tái chế chất thải ngành dệt may theo khái niệm vòng khép kín và vòng hở
Việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ tuyến tính sang tuần hoàn là một giải pháp thiết yếu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững. Ngành dệt may là ngành đáp ứng nhu cầu cơ bản của hơn 8,5 tỷ người vào năm 2030, đã và đang có rất nhiều hành động để cải thiện tính bền vững trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Tất cả các bên liên quan đều xác định việc chuyển đổi sang mô hình nền kinh tế bền vững là cần thiết và có thể đạt được nhờ vào những cam kết chung. Quá trình chuyển đổi này là một quá trình lâu dài, đòi hỏi việc nhất quán áp dụng các hành động, các mục tiêu đã đề ra. Trong tương lai cũng cần thiết phải có nhiều hơn những công cụ kinh tế, các chế tài, các tiêu chuẩn bắt buộc thực hiện để tạo hành lang thuận lợi cho mô hình kinh tế tuần hoàn phát triển, đồng thời tạo động lực thúc đẩy cho các hành vi và lối sống bền vững.
Bài Nguyễn Thanh Ngân
Tài liệu tham khảo: Fibres and textiles in the circular economy, Patrycja Wojciechowska, Department of Industrial Products and Packaging Quality, Poznan University of ´ Economics and Business, Poznan, Poland